1.Trầm cảm là gì?

Trầm cảm là tình trạng buồn chán và mệt mỏi , giảm hoặc mất hứng thú kéo dài ít nhất hai tuần, thường kèm theo 1 hoặc nhiều các triệu chứng ăn uống không ngon miệng, ngủ ít, giảm tập trung , bi quan, và các TC khó giải thích thỏa đáng nguyên nhân thuộc các cơ quan bộ phận trong cơ thể

Động kinh là một bệnh lý của não bộ, do sự phóng điện quá mức của một nhóm tế bào thần kinh

 SỨC KHỎE TÂM THẦN LÀ GÌ?

 

Sức khỏe tâm thần là một trạng thái không chỉ không có rối loạn hay dị tật tâm thần mà còn là trạng thái tâm thần hoàn toàn thoải mái; muốn có một trạng thái tâm thần hoàn toàn thoải mái cần phải có chất lượng nuôi sống tốt, có được sự  cân bằng và hòa hợp giữa cá nhân, người xung quanh và  môi trường xã hội. Đồng thời phải có chất lượng cuộc sống tốt.

 

1.THẾ NÀO LÀ BỆNH TÂM THẦN?

 

Bệnh tâm thần là bệnh có hoạt động não bị rối loạn gây nên những biến đổi bất thường về lời nói, ý tưởng, hành vi, tác phong……

 

Bệnh tâm thần là một loại bệnh phổ biến. Công nghiệp ngày càng phát triển, sự tập chung dân cư vào các thành phố ngày càng đông, môi trường càng ô nhiễm, tiếng ồn càng nhiều, cuộc sống càng căng thẳng thì bệnh càng tăng.

 

Bệnh tâm thần thường không gây chết đột ngột nhưng làm giảm sút khả năng lao động, làm đảo lộn sinh hoạt, gây căng thẳng cho các thành viên trong gia đình, ảnh hưởng đến kinh tế và chất lượng cuộc sống.

 

Bệnh tâm thần nếu không được chữa trị kịp thời có thể dẫn đến trạng thái tâm thần sa sút, người bệnh trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội.

 

Phát hiện sớm chữa trị kịp thời là để ngăn chặn tiến triển xấu này. 

2.NGUYÊN NHÂN NÀO GÂY NÊN BỆNH TÂM THẦN

 

          2.1. Các nguyên nhân thực tổn:

 

- Chấn thương sọ não

 

- Nhiễm trùng thần kinh: viêm não, giang mai thần kinh…

 

- Nhiễm độc thần kinh: nghiện rượu, ma túy…..

 

- Các bênh mạch máu não, các tổn thương não khác: u não, teo não….

 

- Các bệnh nội tiết và rối loạn chuyển hóa ảnh hưởng đến hoạt động của não

2.2. Các nguyên nhân tâm lý:

 

- Căng thẳng tâm lý (các stress tâm lý)

 

- Rối loạn hành vi ở thanh thiếu niên do giáo dục không đúng môi trường xã hội

không thuận lợi.

 

- Phản ứng bất toại, trầm cảm.

 

           2.3. Các nguyên nhân cấu tạo thể chất bất thường và phát triển tâm thần bệnh lý gây ra

 

- Chậm phát triển tâm thần

 

- Nhân cách bệnh.

 

           2.4. Các nguyên nhân chưa rõ ràng

 

Do có sự kết hợp phức tạp của nhiều nguyên nhân khác nhau: di truyền, chuyển hóa, miễn dịch… nên khó xác định các nguyên nhân chủ yếu, gọi là loạn thần nội sinh như:

 

Bệnh tâm thần phân liệt

 

Rối loạn cảm xúc lưỡng cực

 

Động kinh nguyên phát

 

 

                                                  BỆNH TÂM THẦN PHÂN LIỆT

 

1.Thế nào là bệnh tâm thần phân liệt?

 

Tâm thần phân liệt là một bệnh loạn thần nặng tiến triển từ từ, có khuynh hướng mãn tính, căn nguyên hiện nay chưa rõ ràng, làm cho người bệnh dần dần tách khỏi cuộc sống với xung quanh, thu dần vào thế giới bên trong, làm cho tình cảm trở nên khô lạnh dần khả năng làm việc ngày càng sút kém, có những hành vi, ý nghĩ kỳ dị khó hiểu.

 

Bệnh tâm thần phân liệt là một bệnh khá phổ biến ở hầu hết các nước trên thế giới, tỷ lệ từ 0,3- 1% dân số. Bệnh thường  phát sinh ở lứa tuổi từ 18- 40 tuổi.

 

2.Người bệnh tâm thần có những biểu hiện gì?

 

Người bệnh cho rằng: ý nghĩ của mình vang lên thành tiếng nên mọi người biết được ( tư duy bị bộc lộ, tư duy bị phát thanh)

 

Hoặc có ai đó đọc được ý nghĩ của bệnh nhân mặc dù không nói ra ( tư duy bị đánh cắp) hoặc có ai đó sắp đặt ý nghĩ của họ vào đầu bệnh nhân ( Tư duy bị áp đặt).

 

Hoang tưởng là những ý tưởng phán đoán sai lầm, không phù hợp với thực tế mà người bệnh cho là đúng, không thể giải thích đả thông được.

 

Bệnh tâm thần phân liệt thường có hoang tưởng bị kiểm tra, bị chi phối. Người bệnh nghĩ rằng có một người nào đó hay một lực lượng nào đó đang kiểm tra chi phối hoạt động của bệnh nhân, đang theo dõi, đầu độc, làm hại bệnh nhân (hoang tưởng bị theo dõi, liên hệ, đầu độc).

 

c) Bệnh nhân cho rằng mình là một siêu nhân có khả năng làm việc kỳ diệu (điều khiển thế giới, điều khiển thời tiết…)

 

- Cảm xúc cùn mòn, khô lạnh các đáp ứng xúc không thích hợp, xa lánh, hằn học với mọi người, sống cô độc, đi lang thang hoặc lo sợ giận dữ vô cớ.

 

- Ngôn ngữ nghèo nàn hay gián đoạn, thêm từ khi nói, đi đến tư duy không liên quan hay lời nói không thích hợp, ngôn ngữ bịa đặt dẫn đến cách ly xã hội, giảm hiệu suất lao động và học tập.

 

- Biến đổi nhân cách, mất thích thú, vô cảm, lười nhác, thiếu mục đích….

 

3.Nguyên tác chỉ đạo chẩn đoán:

 

- Có ít nhất một triệu chứng rõ rệt trong các nhóm triệu chứng a, b, c, d nếu không rõ thì phải 2 nhóm trở lên.

 

- Các triệu chứng phải tồn tại rõ rệt kéo dài trong thời gian 1 tháng hoặc lâu hơn, nếu thời gian ít hơn 1 tháng thì phải chuyển sang rối loạn loạn thầ cấp giống phân liệt

 

- Không chẩn đoán khi có các triệu chứng hưng cảm hay trầm cảm điển hình. Trừ khi triệu chứng phân liệt xuất hiện trước các rối loạn cảm xúc.

 

- Không chẩn đoán tâm thần phân liệt khi có những bệnh não rõ rệt, bệnh nhân nghiện ma túy, rượu, chấn thương sọ não, chậm phát triển tâm thần hoặc những rối loạn tâm thần là hậu quả của bệnh nhiễm trùng, nhiễm độc, bệnh cơ thể nặng

 

- Không chẩn đoán khi bắt đầu ở tuổi 40 trở lên, bởi lẽ tuổi này có nhiều rối loạn của các bệnh cơ thể kèm theo.

 

4.Bệnh tâm thần phân liệt diễn biến như thế nào?

 

- Thuyên giảm hoàn toàn là người bệnh trở lại bình thường về lời nói, ứng xử, học tập, lao động như trước khi mắc bệnh.

 

- Thuyên giảm một phần tức là các biểu hiện bệnh mất đi xong vẫn còn một số thiếu sót như thiếu linh hoạt, thiếu chủ động giao tiếp với mọi người.

 

Là đặc điểm của bênh

 

* Nhân tố dễ tái phát

 

- Uống thuốc không đều theo chỉ định

 

- Môi trường không dung nạp: hắt hủi, ngược đãi….

 

- Khó khăn không có chỗ nương thân.

 

- Thái độ diễu cợt, trêu ghẹo, ngược đãi, hành hạ.

 

- Phân biệt đối xử trong giao tiếp xã hội, trong công việc

 

- Ly thân, ly hôn.

 

- Yêu cầu đề nghị không được đáp ứng hợp lý.

 

- Các mất mát  về tình cảm, danh dự, cái chết của người thân.

 

Đều là những căng thẳng tâm lý làm cho bệnh dễ tái phát theo những cơ chế sau:

 

- Thúc đẩy sự khởi phát một bệnh tâm thần phân liệt vốn tiềm ẩn ở một người.

 

- Sang chấn làm cho bệnh nặng hơn, biểu hiện rầm rộ hơn.

 

- Sang chấn làm cho các đợt tái phát bệnh mau hơn.

 

Cần biết rằng bệnh nhân tâm thần phân liệt rất dễ nhạy cảm với các vấn đề tâm lý, nhất là các bệnh nhân không dùng thuốc an thần kinh đều đặn.

 

d) Các biểu hiện báo hiệu bệnh tái phát

 

- Thấy căng thẳng ngày một tăng

 

- Lo lắng viển vông không thể thư giãn

 

- Rối loạn giấc ngủ

 

- Mệt mỏi

 

- Dễ kích thích, cáu bẳn

 

- Hoảng sợ không có lý do

 

- Thu mình, từ chối giao tiếp, ăn uống

 

- Thờ ơ với mọi người và bản thân, không tự chăm sóc

 

5.Điều trị bệnh tâm thần phân liệt như thế nào?

 

Vì nguyên nhân của bệnh chưa rõ ràng nên việc điều trị bệnh chỉ là điều trị triệu chứng và phục hồi chức năng tâm lý xã hội do có sự kết hợp giữa các nhân tố sinh học và môi trường tron cơ chế sinh bệnh, nên việc điều trị bệnh tâm thần phân liệt phải kết hợp nhiều liệu pháp khác nhau trong từng giai đoạn bệnh.

 

a) Can thiệp tâm lý

 

Thái độ tốt nhất trong điều trị bệnh nhân là giúp cho gia đình người bệnh nhận thức được về bệnh, chấp nhân, quan tâm, cảm thông với người bệnh.

 

b) Can thiệp bằng thuốc chống loạn thần

 

- Trong các cơn tâm thần phân liệt cấp, thuốc chống loạn thần là xuất phát điểm cần thiết để điều trị, bởi vì bước đầu tiên là cần phải nhanh chóng đưa bệnh nhân thoát khỏi trạng thái ảo giác nặng: kích động, hoang tưởng….. các thuốc chống loạn thần là phương pháp thông dụng và có hiệu quả chống các trạng thái loạn thần cấp, chống tái phát, chóng mãn tính hóa.

 

Các thuốc chống loạn thấn đều là thuốc có tác động mạnh do vậy cần được chỉ định nghiêm ngặt và thận trọng

 

Chọn thuốc và liều lượng phải phù hợp với trạng thái bệnh hiện tại, từng thể bệnh, từng cá thể. Lúc đầu liều thấp để thăm dò, khả năng dung nạp thuốc, sau đó tăng liều dần, giảm rồi cắt theo chỉ định của bác sỹ.

 

* Tác dụng chính của thuốc

 

- Chống loạn thần

 

- Gây an dịu

 

- Giải ức chế

 

- Các thuốc an thần kinh chủ yếu: Haloperidol, Aminazin, Levomepromazin….

 

* Tác dụng phụ:

 

- Chứng ngoại tháp: cứng đờ, xoắn vặn cơ thể, bồn chồn, tăng tiết nước bọt, tăng tiết mồ hôi….

 

- Dị ứng: mẩn ngứa, mề đay…..

 

- Hạ huyết áp tư thế đứng

 

- Vàng da, vàng mắt

 

- Khi bệnh nhân ngủ lâu, đánh thức khó dậy là biểu hiện của quá liều

 

- Hội chứng an thần kinh ác tính: sốt cao, mạch nhanh, nhịp thở nhanh, huyết áp dao động, vã mồ hôi.(ít gặp khi điều trị ngoại trú)

 

              PHỤC HỒI CHỨC NĂNG TÂM LÝ XÃ HỘI NGHỀ NGHIỆP

 

1.Tại sao phải phục hồi chức năng tâm lý xã hội?

 

- Bệnh nhân sau khi được điều trị người bệnh có thể hết các triệu chứng rối loạn tâm thần nhưng họ vẫn không làm được việc, thiếu tự tin, ngại tiếp xúc.

 

- Bệnh có khuynh hướng tiến triển mãn tính, người bệnh ngày một tách rời, xa lánh mọi người, khó hòa nhập với cộng đồng.

 

- Xã hội cũng có khuynh hướng mặc cảm với bệnh nhân, cho là người bệnh không còn khả năng giúp ích gì cho xã hội.

 

2.Phục hồi chức năng tâm lý xã hội như thế nào?

 

- Phải giải thích cho gia đình, người bệnh hiểu thế nào là bệnh tâm thần phân liệt

 

- Chấp nhận, quan tâm, giúp đỡ bệnh nhân.

 

- Giải thích tại sao phải uống thuốc, uống như thế nào

 

- Hướng dẫn cho họ biết các tác dụng phụ của thuốc

 

- Giúp gia đình người bệnh biết cách ứng xử với các biểu hiện bất thường của bệnh nhân.

 

* Phục hồi chức năng sinh hoạt: hướng dẫn bệnh nhân tự tắm giặt, vệ sinh, ăn ở…

 

* Phục hồi chức năng tâm lý xã hội: giúp người bệnh giao tiếp với mọi người, tôn trọng lắng nghe họ nói, giúp đỡ họ khi cần thiết.

 

* Phục hồi chức năng lao động nghề nghiệp: giúp cho họ làm được các việc như trước khi mắc bệnh

 

* Dạy cho họ một công việc mới đơn giản.

 

* Cùng làm với bệnh nhân, khuyến khích, giúp đỡ họ khi khó khăn.

 

3.Phòng bệnh tâm thần phân liệt

 

Căn nguyên của bênh chưa rõ ràng nên phòng bệnh tuyệt đối chưa có cơ sở chắc chắn

 

Tuy nhiên vẫn cần phải phòng tương đối, chú trọng vào các điểm sau:

 

- Rèn luyện trẻ em tính tập thể, biết cách ứng xử với môi trường và các điều kiện khó khăn trong cuộc sống

 

- Theo dõi những người có yếu tố di truyền để phát hiện và điều trị sớm

 

- Tiếp tục theo dõi bệnh nhân sau khi ra viện, duy trì điều trị củng cố và tích cực chữa các bệnh nhiễm khuẩn, bệnh cơ thể, tránh bệnh nhân quá mệt mỏi, lao động quá mức, đề phòng tái phát.